Trên bản đồ Khảo cổ tỉnh Quảng Ngãi về phía cực nam có một chấm màu đỏ nổi bật trên nền vàng nâu của cát và xanh lơ của biển. Đó là Gò Ma Vương, thuộc thôn Long Thạnh 2, xã Phổ Thạnh (huyện Đức Phổ). Từ 1909 và nhiều năm sau đó, địa danh này đã thu hút hàng trăm nhà khảo cổ học trong và ngoài nước đến để tìm trong lòng cát những “hộp đen” ghi lại cuộc sống của cư dân Sa Huỳnh cách đây hơn 3000 nghìn năm. Giới khảo cổ học gọi đó là nền Văn hóa Sa Huỳnh. Cùng với nền Văn hóa Đông Sơn và Văn hóa Óc Eo, Văn hóa Sa Huỳnh góp phần tạo nên thế chân vạc trong tổng thể nền Văn hóa Việt Nam.
Đường đến gò Ma Vương
Đầu xuân. Dọc đường qua xóm Cát (Thôn Long Thạnh 2) để lên gò Ma Vương, những nụ tầm xuân lay lay trong gió chiều, một chút mưa bụi rây trong nắng vàng ươm. Màu nắng ấy làm hồng đôi môi những cô gái tôi gặp trên đường về trung tâm chợ Sa Huỳnh.
Đường lên gò Ma Vương
Đã bỏ lại sau lưng mấy dặm cát, gò Ma Vương vẫn chưa hiện ra. Nhưng vội gì chứ? Tôi thích cái trễ tràng chiều cuối năm để kéo dài cảm giác bâng khuâng lâu rồi không gặp - thứ cảm giác thường thiếu vắng trong nhịp sống gấp gáp đời thường. Chợt cười thầm về câu nói “có gai” của cô gái lắm lời lúc nãy: “Anh lên khu mộ xưa chụp hình hả? Em theo chỉ đường cho anh nghen? Mà sao máy ảnh của anh nhỏ xíu vậy? Em thấy cái của mấy ông nhà báo tỉnh hoành tráng lắm”.
Ngồi trên thảm cát vàng, nghĩ về cái tên “Sa Huỳnh” ông cha đã đặt và bỗng dưng nghe lòng trôi về phía thẳm xa. Nghìn năm trước, những bàn chân thiên lý đã dừng lại nơi này, rỏ từng giọt mồ hôi làm nên những làng chài hình cánh buồm căng phồng bên mé biển. Xóm Cát là một cánh buồm như vậy, thấp thoáng quanh gò Ma Vương. Nhưng nơi đây từng có một quãng đời buồn, buồn như những giỏ lá dương khô trên lưng người băng qua đồi cát. Những năm chiến tranh, vào xóm Cát như lạc vào mây khói. Dương thì bạt ngàn nhưng lá rụng không đủ cho những bếp nghèo đỏ lửa. Giờ đời sống “ngon” rồi, nhà cửa tinh tươm với bếp điện, bếp gas. Những chiếc lá nhỏ như cây kim thôi hóa thân vào lửa. Chúng nằm yên dưới cội. Lá mùa sau ôm ấp mùi lá mục dịu dàng của lá mùa trước như thời gian ấp ủ thời gian. Như những nghìn năm ấp ủ trong lòng đất này một nền văn hóa.
Gò Ma Vương bên biển Sa Huỳnh
Có lẽ chưa có địa phương nào chuyển mình từ…khảo cổ, trừ xóm Cát. Đang đìu hiu với những truông cát bịt bùng cây dại, giờ nơi này đã thông đường thoáng lộ nhờ những đoàn khảo cổ hết tây tới ta dập dìu thăm viếng. Ông Trần Hoành, 59 tuổi, nhà dưới chân gò Ma Vương, nói với tôi với cặp mắt rất vui: “ Nhà Bảo tàng Văn hóa Sa Huỳnh” đang được xây dựng, cái xóm này hổng chừng vượt cấp lên thị trấn du lịch cổ chớ chẳng chơi”. Vui lây từ ông Hoành, tôi có cảm giác con đường chừng ngắn lại. Gò Ma Vương - “cõi thiên thu” của người Sa Huỳnh cổ đã hiện ra. Không có lối mòn nào dẫn lên gò, vẫn ngỡ bàn chân mình đang bồi hồi đặt lên dấu chân của người xưa.
Một bên gò Ma Vương là đầm nước ngọt trong veo
Ngồi với cát, nghe những nghìn năm
Trong tâm thức về nguồn, tôi quên bẵng những tất bật cuối năm, thanh thản lên đây để nghe trong lòng cát vọng về tiếng nghìn xưa, để được nối “kênh” cảm xúc của mình với tâm hồn của “những người muôn năm cũ”.
Cái tên “gò Ma Vương” xuất phát từ tên một loại cây có gai, lá nhỏ nhắn, mọc thành từng mảng trên gò: cây ma vương. Cát cằn khô thế mà lá xanh đến ngỡ ngàng. Gò nằm giữa một bên là biển, một bên là rừng dương xanh thẫm và đầm nước ngọt trong veo. Khi chọn nơi này để kết thúc đường đi cho hạt cát đời mình, người Sa Huỳnh cổ hẳn là “phong thủy” lắm. Hàng trăm ngôi mộ chum và những vật dụng tùy táng được tìm thấy trong nhiều lần khai quật đã vén mở lịch sử của cư dân Sa Huỳnh thuở sơ khai.
Người xưa đã lấy tên loài cây này để đặt tên cho gò - Gò Ma Vương
Nắng lao xao trong những cành dương. Gió trên gò như thổi về từ miền cổ tích. Tôi trầm ngâm cùng cát trong suy tưởng. Dẫu biết từ ba nghìn năm trước đến bây giờ là trùng trùng những cuộc bể dâu, biển tiến - thoái bao lần, gò Ma Vương ngày ấy - bây giờ cũng lở bồi mấy cuộc, nhưng tôi vẫn xác tín một điều: người Sa Huỳnh xưa và nay đều có cùng nỗi khát vươn khơi, cùng một tầm nhìn hướng biển. Tôi nghe mông lung triều lên, vỗ vào mạn thuyền dập dềnh dưới bến. Những chàng trai ngực trần vồng lên như lượn sóng, xăm hình thủy quái, xách từng xâu cá đi về phía những túp lều. Lửa bập bùng soi bóng những cô gái đội nước ven bờ đầm. Tiếng tù và trầm đục gọi trăng, phả lên làng chài bàng bạc màu huyền sử.
Mộ chum
Khá nhiều di chỉ thuộc Văn hóa Sa Huỳnh đang nằm trong lồng kính của viện bảo tàng. Chúng bắt đầu một cuộc sống khác sau ba thiên niên kỷ ẩn mình trong mộ chum. Những nét hoa văn trên từng vật dụng gốm là những chấm phá tài hoa của người xưa. Tôi nghe trong rìu đá tiếng đẵn cây dựng chòi, đóng thuyền cho những cuộc hải hành chinh phục Hoàng Sa, Trường Sa; nghe trong lưỡi câu bằng đá tiếng cá quẫy và tiếng sóng biển Đông vang vọng. Đó là thứ “ngôn ngữ” góc cạnh, khỏe khoắn bật lên từ những ngư phủ đầu tiên đặt chân lên mảnh đất Sa Huỳnh. Còn một thứ “ngôn ngữ” khác - ngôn ngữ của cái đẹp uyển chuyển, được “ghi” trên đồ trang sức làm từ đá, ngà voi, vỏ ốc…Đó là những “ký tự” thể hiện hồn cốt người xưa. Hình ảnh mây, sóng, cỏ, hoa, nước, lửa, mặt trời…được chạm khắc khá sống động trên những chiếc nhẫn, vòng cổ, khuyên tai, vòng đeo tay…Hẳn người Sa Huỳnh xưa đã yêu đến tận cùng cái đẹp, biết làm đẹp, và trả giá cho cái đẹp bằng lòng kiên nhẫn qua ròng rã tháng năm mới có thể tạo dáng nét thanh nhã cho những sản phẩm trang sức ấy. Từ hơn ba nghìn năm trước bước ra, cái đẹp cổ điển của những di chỉ Văn hóa Sa Huỳnh trong lòng gò Ma Vương đã gây không ít bất ngờ cho các nhà khảo cổ học và mỹ học đương đại.
Bóng chiều gợi nỗi gì xa lắm khi tôi chia tay không gian chứa những nghìn năm. Biết là bụi rồi sẽ vào trong bụi, vậy mà khi rời gò Ma Vương trùng điệp những mùa xuân rêu phong, tôi không khỏi ngoái đầu nhìn lại. Nhìn lại để nghe triều vẫn dâng giữa đôi bờ sinh tử, để nghe quá khứ như hòn than mãi ấm trong tro. Và người Sa Huỳnh hôm nay sẽ mang hơi ấm ấy đi về phía ngày mai - phía của những mùa xuân kế tiếp.
Bài và ảnh: Trần Cao Duyên